Giới thiệu về Nhà thờ Hộ Diêm
Giáo Hạt Ninh Hải Hộ Diêm, Hộ Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận Unnamed Road Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm Ninh Thuận VN 0259 3871 109 0259 3871 109 http://www.giaoxuhodiem.net/ Nhà Thờ là: Giáo Xứ Bổn Mạng: Mình Máu Thánh Chúa (06/06) Số Giáo Dân: 7,618 Giáo Dân Năm thành lập: 1900 Linh Mục Chánh Xứ: Gioan Baotixita Nguyễn Kim Đệ Linh Mục Phó Xứ, Phụ Tá: Gioakim Nguyễn Tô Xuân Vinh Lịch Thánh lễ Thứ 7: 17:30 Lịch Thánh Lễ Chúa Nhật: 04:30, 07:00
Hình thành và phát triển
Những người sử dụng Quốc lộ 1 di chuyển Nha Trang đi Phan Rang khi đến cây số 8 cách Phan Rang nhìn thấy phía bên trái ngôi thánh đường đồ sộ với ngọn tháp cao vượt lên giữa những xóm đông dân cư, ngất ngưởng trông ra cánh đồng bao la bát ngát, đó là thánh đường giáo xứ Hộ Diêm.
Buổi sơ khai:
Cố Ðề (R.P.Villaume) chánh xứ Dinh Thuỷ (Tấn tài), khi đã hoan hỷ về thành quả thu được bởi công cuộc dẫn thuỷ nhập điền vào đồng ruộng Tấn tài, Tấn lộc, Mỹ an và Tân hội do đập nước của ngài xây dựng ở vua Tháp (Lâm cấm), ngài đã đứng ra xin chánh phủ bảo hộ một nhượng địa khá rộng trong đồng bằng Hộ diêm gồm những đất đai hoang vu và ruộng muối phía tây Ðầm Nại.
Ngài đã được chấp thuận năm 1891, đúng hơn là vào năm 1900, ngày thành lập Giáo xứ Hộ diêm. Thật sự, Cố Ðề vì quá bận tâm với những công tác quan trọng trong việc kiến thiết đập nước mới Nha trinh của ngài và công cuộc đào mương dẫn thuỷ không thể bắt tay vào việc thành lập và tổ chức họ đạo mới được.Vả lại, chứng nặng tai đã làm cho ngài bất lực trong việc thi hành nhiệm vụ cha. Do đó Ðức Giám Mục Van Camelbeke, đại diện Tông toà miền Ðông nam phần, đã cử cố Kim (R.P.Geoffroy) từ Qui nhơn vào ngày 30.12.1898 phụ tá ngài. Chính Cố Kim là vị khai sáng thật sự giáo xứ Hộ diêm.
1899-1918, Phụ tá Cố Ðề trong một năm rưỡi, sau kế vị ngài khi ngài tử nạn ngày 6.9.1900. Cố Kim lúc đầu cư ngụ trên một gò cát gần “mương Ngang” ngày nay, trong một túp lều tranh vừa làm nhà ở vừa nguyện đường. Ðời sống ngài rất cơ cực và bận rộn trong nhiệm vụ điều khiển công trình đào mương đập dài 24 km, rộng 08 m, kéo dài trong 10 năm. Mười năm kế tiếp, Ngài dồn nổ lực vào công tác phát quang, san bằng và khai khẩn vùng đất địa bao la đầy lùm bụi và cây bần. Ngài sử dụng máy trắc lượng rất thông thạo và khéo léo đến nổi một kỷ sư hoả xa một ngày nọ đã viện dẫn ngài làm gương cho các đốc công của ông. Ngài cũng lưu tâm học ngôn ngữ Chàm, vì đa số lao công trong công trường thuộc gốc dân thiểu số dị giáo này.
Ðến năm 1906 con mương hoàn tất, Cố Kim đến ở trên một cồn cát rộng và cao hơn, chốn này những năm về trước vài gia đình từ Bình định, Quảng Nam ngài đã đem vào quy tụ ở đó. Họ đạo Hộ diêm được thành lập, để ngăn nước biển tràn vào đồng ruộng vừa khai khẩn, ngài còn phải đắp một con đê đất dài nhiều cây số chạy từ chân núi Cà Ðú đến xóm Gò thao.
Là một nhạc sĩ trứ danh ngài rất thích đánh đàn phong cầm (harmonium) cho con chiên ngài thưởng thức. Hơn nữa, ngài còn đặt một dàn chuông 12 cái lớn nhỏ đủ cở đủ giọng, làm trẻ con khoái chí và cũng là hấp lực mạnh gây sự chú ý nhiều người đến Hộ diêm. Ðến thời Cố Thiết (R.P.Gallios) ngài đã dẹp dàn chuông này, phân tán số chuông rải rác cùng khắp địa phận Quy nhơn. Ðiều này làm cho tất cả giáo dân sở tại buồn tiếc lâu ngày.
Cố Kim cũng thành lập một ban nhạc kèn đồng nổi tiếng như dàn chuông, nhưng cuộc oanh tạc của Ðồng Minh ngày 28.03.1945 chôn vùi dưới gạch đá nhà xứ phần lớn nhạc cụ, số còn lại dần dần biến mất.
Năm 1913, Cố Kim cất lẫm lúa nhà Chung rộng lớn bằng gỗ và dành riêng một phần để ở. Ðồng thời ngài cất nguyện đường trên chỗ nhà trường hiện tại (nhà trường cũ) và hoàn thành đầu năm 1914, từ đó có thể để Mình Thánh Chúa thường trực. Nguyện đường này năm 1930 được gỡ ra đem cất nhà thờ Gò đền.
Ngài tạ thế ngày 04.11.1918 ở Sài gòn và được an táng tại nghĩa địa Adran tuổi đời chưa đến 50, nhưng thân xác ngài đã kiệt sức vì những cơn sốt rét thường xuyên cùng với những lo âu và công việc nặng nhọc. Trong giờ lâm chung, hẳn ngài đã vui mừng vì nhìn thấy Giáo xứ Hộ diêm đạt được số giáo dân 1062 người rải rác trong bốn giáo đoàn Hộ diêm, Gò đền, Cà đú và Trại cá mà con số giáo dân chỉ ghi 72 người trong năm 1900.
1919-1927, Cố Thiết (R.P.Gallioz) nối tiếp công việc của vị tiền nhiệm trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, ngài đã cho tân tạo một nhà xứ nhỏ có lầu, hầm dự trử và bể nước. Tất cả đã hoàn toàn huỷ hoại trong cuộc oanh tạc ngày 28.3.1945 nói trên. Ngài cũng mở một con đường đất song song với quốc lộ1 từ Cà đú đến Gò đền, để cho xe bò của tá điền nhà Chung di chuyển khắp địa hạt mà khỏi cần quốc lộ1 cũng như khỏi đóng thuế xe. Sau đó, ngài khởi công xây móng ngôi thánh đường hiện tại, nhưng bệnh hoạn buộc ngài phải về Pháp ngày 7.2.1927. Ra đi ngài để lại cho giáo xứ Hộ diêm một đàn bò và một đàn cừu.
1928-1943, Cố Lợi (R.P. Piquet sau là giám mục Quy nhơn- Nha trang) với sự cộng tác giáo dân đã kiến thiết thánh đường hiện nay năm 1930 với tổn phí 24000 đồng (thời ấy). Lễ khánh thành trọng thể được cử hành ngày 22.4.1931 do Ðức Giám Mục Phú chủ sự (S.E.Mgr.Tardieu). Tiếp đến 1937-1938 ngài kiến thiết thánh đường Cà Ðú (Thanh điền) hiện nay và năm 1944 nguyện đường Gò sạn.
Ngài cũng chú trọng đến việc khai khẩn đất nhà Chung ở Phước Thiện và Phước An, các họ lẻ được tách ra khỏi giáo xứ Tấn tài năm 1938 sát nhập vào Hộ Diêm đến năm 1947. Ngài đã lập họ Tầm Chưởng (Phước an) và định cư tại đó, 1924 khoảng 10 gia đình nghèo ở Bình định và những người xuất thân từ viện mồ côi Ðại an (Bình định). Chính ngài đã phát động phong trào trồng bông gòn, bắp và nhất là thuốc lá, tạo nguồn lợi cho xứ sơ,û cung cấp nguồn tài chính cho dân sở tại. Nhờ đó cuộc sống họ nên dễ dàng và hưởng được một số tiện nghi ngày nay. Ngoài việc xây cất ngôi thánh đường hiện đang sử dụng, gia sản tinh thần mà Ngài để lại cho giáo xứ, đó là: cùng với cha phó (cha Anrê Lễ) thành lập Hội Con Đức Mẹ Hộ Diêm.
1944-1948, Cố Trí (R.P.Alexandre) chăn sóc con chiên ngài trong một thời buổi đặc biệt khó khăn. Vì vậy, ngài đã thiết lập một xưởng dệt vải lớn cho toàn vùng trong lúc Việt Nam không thể nhập cảng được vải vóc từ ngoại quốc. Ngài đã cho đắp con đê đất mới dài 715 m để đóng kín doi Ðầm nại làm thành một đìa cá cho giáo xứ Hộ diêm. Năm 1947 ngài còn xây một thánh đường nhỏ tại Hòn thiên với một nhà xứ thích hợp để cho một linh mục ở.
Trong thời buổi mất an ninh này, ngài rất bận tâm về việc tổ chức tự vệ cho Giáo xứ mà ngài đã nhúng tay vào từ tháng 6.1946. Do đó ngài được xem như một trong những vị tiền phong quốc sách ấp chiến lược. Theo tháng năm, ngài kiện toàn tổ chức tự vệ này hữu hiệu đến nổi các dân làng kế cận phải chạy đến xin tá túc tại Hộ diêm.
Sự kiện đáng ghi nhận là Cố Trí đã bị gạch ngói vụn nhà xứ đè trọng thương ngày 28.3.1945 trong trận oanh tạc của phi cơ Ðồng minh.
1948-1975 Cố Báu (R.P.Gauthier, tổng đại diện).
Công tác đầu tay của vị thừa sai này khi mới đến là xúc tiến xây cất một nhà xứ mới, không lầu nhưng rộng rãi hơn nhà cũ, rồi sang việc kiến thiết một ngôi trường gồm 5 lớp khang trang, đến 1958 lại thêm một lớp ngay trên chỗ nhà thờ cũ, như thế chứng tỏ con số trẻ em tăng trưởng nhanh chóng chừng nào.
Từ 1948-1954, như vị tiền nhiệm, ngài thường xuyên củng cố tổ chức tự vệ, cho xây thêm một hệ thống phòng thủ, tháp canh, có thể liên lạc nhau ban đêm bằng đèn hiệu.
Năm 1955, ngài tái tạo nhà thờ Gò sạn do thời cuộc bị hoang phế từ tháng 7.1948. Năm 1958 ngài thỉnh các bà Phước St. Paul de Chartres đến Gò đền để điều khiển trường xứ và thiết lập trường huấn nghệ cho thiếu nữ Thượng duyên hải, sau đó thêm thiếu nữ Chàm.
Năm 1967-1968 Ngài tân tạo nhà xứ Hòn thiên với hồ chứa nước mưa để có thể an cư một cha nào tuổi tác lớn hoặc dưỡng bệnh về đó đồng thời coi sóc cộng đoàn giáo hữu 470 người.
Giáo xứ Hộ diêm, trong vòng 70 năm hiện đã tăng trưởng nhanh chóng từ con số 72 lúc sơ khai (1900) tiến đến mức 9310 trong năm 1970. Sự kiện này ban đầu nhờ công cuộc di dân của những gia đình nhất là từ Quảng nam và Bình Ðịnh, tiếp đến nhờ mức độ sinh sản nhanh.Tuy nhiên, cũng có một số đông thiếu đất cất nhà và không làm ăn được đã tìm sinh kế nơi khác.
Nếu trong 70 năm hiện hữu, giáo xứ này có 5 linh mục quản xứ chính thức cộng với 3 linh mục xử lý thường vụ: linh mục Linh, linh mục Lễ và linh mục An, trái lại số linh mục phó tính được khá đông và một số linh mục phụ tá. Ba linh mục đầu tiên trong số ấy: Quý linh mục Ái, linh mục Chẩm và linh mục Binh thường phải lo việc thiêng liêng cho các họ Gò đền, Cà đú hơn là Hộ diêm. Chỉ từ linh mục Tới trong năm 1928 mới thường trực là phó xứ ở tại Hộ diêm.
Trong những năm dài, các sư huynh dòng Thánh Giuse đã tiếp tay đáng kể cho hàng giáo phẩm của xứ hoặc đảm nhiệm việc quản thủ ruộng đất (quản lý) hoặc điều khiển trường tiểu học. Các sư huynh phụ trách văn hoá sau này được các thầy chủng viện thực tập thay thế, tiếp đến từ năm 1956 là các bà Phước tu Viện mến Thánh Giá Gò thị.
Các hoạt động công giáo tiến hành lần lược ra đời và hoạt động nhộn nhịp:
Hội con cái Ðức Mẹ ra đời năm 1940 do linh mục Lễ, và năm 1949 linh mục Phước (R.P.Béliard). Hội Thánh Thể năm 1954 do linh mục Sách. Ca đoàn Cécilia được cải tổ do linh mục Hỷ,. Liên minh Thánh Tâm năm1961 do linh mục Hành. Hội các Bà Mẹ Công Giáo năm 1967 do linh mục Lộc và Hùng Dũng năm 1969 do linh mục Thanh.
1975-1978 Giáo xứ được linh mục Giuse Lê khắc Tâm coi sóc, nhưng chỉ một thời gian ngắn ngài bị chứng bệnh ung thư rồi mất. Xác ngài được an táng sau thánh đường Hộ Diêm. Mãi đến 1989 giáo xứ mới được Ðức Giám Mục bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xavie Nguyễn Nhị chính thức về ở với giáo dân, lâu nay chỉ có thầy Martinô Hồ Ðắc Trung và các linh mục xung quanh đến dâng thánh lễ và ban các bí tích. Năm 1990 ngài tổ chức lễ Tạ Ơn 90 năm thành lập Giáo xứ rất thành công.
Thời gian này ngài đứng ra tổ chức, xây dựng lại các đoàn thể, các phong trào đạo đức lâu nay không ai chăm sóc. Ðời sống đạo của Giáo xứ như được ngọn gió mới thổi bùng lên ngọn lửa từ những mẫu than âm ỉ dưới lớp tro.
Ðến 1996, ngài sử sang lại ngôi thánh đường, cho sơn lại tường trước đây quét vôi, thay và sơn lại ngói cũ, nâng và mở rộng cung thánh. Trong thời gian này ngài sángd kiến đập vách nhà Lẫm thay bằng vách gỗ, phía trên đóng râm ri thoáng mát và rộng rãi có thể chứa đông giáo dân tham dự thánh lễ trong các lễ trọng và Chúa nhật. Ðây cũng là nơi hội họp, dạy giáo lý, sinh hoạt văn hoá. Ngài còn tổ chức những phong trào văn nghệ, đặc biệt những giải bóng đá thiếu niên nhi đồng và dịp hè.
Năm 1998, Ðức Giám Mục bổ nhiệm linh mục phó Giuse Nguyễn Ðức Long trong niềm vui sướng hồ hởi của giáo dân, cùng cộng tác với linh mục quản xứ ngài cho trồng cây xanh và lác đá xung quanh nhà thờ, bắt hệ thống quạt. Ngôi thánh đường càng thêm khang trang, lộng lẫy. Ðồng thời ngài xin Ðức Giám Mục tiền mua lại hai ngôi nhà nằm trong khung viên thánh đường để có nơi hội họp và sinh hoạt cho các đoàn thể. Từng ngày giáo xứ vững bước đi lên trong đời sống đức tin và trong tình đoàn kết yêu thương.
Các linh mục phụ trách giáo xứ từ ngày thành lập đến nay:
- Cố Kim (R.P.Julien Geoffroy)1899-1918.
- Linh mục Antôn Linh (Xử lý thường vụ) 1918-1919.
- Cố Thiết (R.P.Pierre Gallioz) 1919-1928.
- Cố Lợi (SE Mrg. Piquet)1928-1943.
- Linh mục Anrê Lễ (XLTV)1943-1944.
- Cố Trí (R.P.Pierre Alexandre) 1944-1948.
- Linh mục Antôn An (XLTM)1945-1946.
- Cố Báu (R.P Pierre Gauthier)1948-1975.
- Linh mục Giuse Lê khắc Tâm 1975-1978, Ngài qua đời 1978 được an táng tại thánh đường Hộ diêm.
- Linh mục Gb Phạm hồng Thái, Quản xứ Thanh điền kiêm nhiệm giáo xứ Hộ diêm, trong thời gian Ðức giám mục chưa bổ nhiệm được linh mục quản xứ từ 1978-1989.
- Linh mục Fx Nguyễn Nhị 1989- đến nay.
- Linh mục phó xứ:
- Quý linh mục Jos Ái 1921-1924.
- Ant Chẩm 1924-1926.
- Step Bính 1926-1928.
- Thom Tới 1928-1933.
- Phêrô Quá 1933-1934.
- Aug Long 1934-1935.
- Anrê Lễ 1935-1941.
- Thom Hườn 1941-1942
- Gb Quảng 1942-1943.
- Jos Số 1943-1944.
- Martinô Hộ 1944.
- Toach Hoá 1944.
- Giuse Nghị 1944-1945.
- Vinc Khương 1945-1946
- Cố Minh (R.P. Tamet) 1946-1949.
- Cố Lộc (R.P. Jacq Cuordez) 1946-1947.
- Cố Phước (R.P.Don. Béliard) 1947-1953
- Linh mục Luy Nhẫn 1953.
- Phêrô Sách 1953-1955
- Giuse Châu 1955-1956.
- Phêrô Mân 1956-1957
- Jos Tâm 1957-1959
- Hil Hỷ 1959-1960
- Phêrô Hành 1960-1965
- Alex Ngọc 1962-1964
- Phao lô Tịnh 1964-1967
- Phao lô Lộc 1967-1968
- Tadêô Thanh 1968-1970
- Gb Thái 1970-1973.
- Giuse Tinh 1973-1976.
- FX Nguyễn Nhị
- Giuse Long 1998- 2000.
- Phanxicô Assisi Nguyễn Tôn Sùng 2000 – nay
- Phó xứ: Antôn Nguyễn Ngọc Trăi 2005 – nay
Hoa quả ơn gọi của giáo xứ
- Linh mục Fr Nguyễn Tôn Sùng
- Linh mục Giuse Trần Văn Láng
- Linh mục Jb Lê Văn Nhì
- Linh mục Giuse Nguyễn Ðức Long
Tu sĩ
- Dòng Mến Thánh Giá: Nữ tu Adrienne – Nữ tu Sophie Kết – Nữ tu Christine Phụng -Nữ tu Phạm thị Cúc Hoa – Nữ tu Nguyễn thị Trung – Nữ tu Phạm Thị Mai Linh – Nữ tu Thuư – Nữ tu Nguyễn thị Ðịnh – Nữ tu Nguyễn thị Ðẹp -Nữ tu Nguyễn thị Thay
- Dòng Khiết Tâm Ðức Mẹ Bình Cang: Nữ tu Mélanie Minh Loan – Nữ tu Jean Marie Chế – Nữ tu Kim – Nữ tu Mến – Nữ tu Trần Thị An Tuyền – Nữ tu Trần Thị Thuư