Giới thiệu về Nhà thờ Giáo xứ Vinh Hương
Giáo Hạt ĐĂK MIL Đức Mạnh Đắk Mil Đăk Nông Việt Nam Đường 14 Đăk Nông VN 0501. 3751 759 0501. 3751 759 gxvinhhuong@Gmail.com http://gxvinhhuong.net/ Nhà Thờ là: Giáo Xứ Bổn Mạng: Thánh Gioan Baotixita Số Giáo Dân: 4,256 Giáo Dân Năm thành lập: 1957 Linh Mục Chánh Xứ: Phaolô Trần Vĩnh Niệm
1957
Thánh Gioan Baotixita
4256
GIÁO XỨ VINH HƯƠNG
1. Quá trình thành lập:
Được sự chấp thuận của Đức Giám Mục Giáo Phận, GX Vinh Hương được chia cắt từ Gx. Vinh An vào cuối năm 1957. Là một Giáo xứ toàn tòng di cư từ Nghệ An và Quảng Bình vào miền Nam sau hiệp định GENEVE 1954. Sau 1 năm tạm cư tại Tầm Hưng và Vinh Thuỷ (Phan Thiết), bà con cùng với Lm. Nguyễn Viết Khai (đại diện UB định cư GP Vinh tại miền Nam) và Lm JB. Nguyễn Quang Diệu (Nguyên quản xứ Tầm Hưng lúc đó) dời cư lên vùng Đức Minh để lập nghiệp, vì nơi đây khí hậu mát mẻ, đất đai màu mỡ, thích hợp với nghề nông.
Dưới sự hướng dẫn của Lm. Hồ Sỹ Cai (nguyên phó xứ Vinh An), bà con từ Đức Minh ra phía Đông-Bắc QL.14 khai phá từ cây số 296-302 để lập nghiệp và lập xứ.
Những ngày đầu thành lập có khoảng 350 giáo dân (đa số gốc Bùi Ngoã, Bồ Sơn và Kẻ Gai thuộc GP Vinh ngoài Bắc) và 2 giáo họ. Đến năm 1971, có tất cả 5 giáo họ (Thanh Tân, Vinh Sơn, Bác Ái, Đức Lễ và Daklao)
Năm 1990, giáo họ Bác Ái chính thức trở thành Giáo Xứ và Giáo họ Đức Lễ trở thành giáo họ biệt lập.
Hiện nay, giáo xứ Vinh Hương gồm 3 giáo họ: Thanh Tân, Vinh Sơn và Daklao với số giáo dân là 4415 người (không kể giáo họ Đức Lễ).
2. Các Linh mục Quản xứ và Phó xứ
– Lm. JB. Hồ Sỹ Cai: Quản xứ đầu tiên, từ năm 1957 – 1970.
– Lm. Phaolô Lê Thanh Thiên: Quản xứ từ năm 1970 – 1994
– Lm. P.X. Nguyễn Kim Long: Quản xứ từ năm 1994 – 1999.
– Lm. Đaminh Vũ Đức Hậu: Quản xứ Vinh Hương và Bác Ái từ 1999 đến nay.
– Lm. Phaolô Nguyễn Công Minh: phó xứ từ 1995 và quản xứ từ 16.01.2007 đến nay.
– Lm. Phêrô Cao Tiến Hà: phó xứ từ ngày 16.03.2009
3. Công tác xây dựng.
– 1957: làm nhà thờ tạm (nhà sàn lợp tôn)
– 1958: làm nhà thờ mới (lợp tôn thưng ván)
– 1959: nới rộng nhà thờ, xây tường chung quanh và lấy tước hiệu Thánh Gioan Tẩy Giả.
– 1970: Xây dựng trường tiểu học Nguyễn Trường Tộ.
– 1971: Xây nhà xứ
– 1992: Trùng tu nhà thờ.
– 1993: Xây dựng tháp chuông.
– 1996: Xây dựng nhà thờ mới rộng 1100m2.
– 1997: Xây dựng tượng đài thánh quan thầy Gioan Baotixita.
– 1999: Xây dựng nhà xứ mới rộng 500m2…
– 2010: Xây dựng Nhà giáo lý và Đài Đức Mẹ
LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO XỨ
Do bối cảnh lịch sử đất nước cũng như lịch sử thành lập của Giáo Phận và Giáo xứ, chúng ta tạm chia lịch sử truyền giáo của Giáo Xứ thành những giai đoạn:
– Giai đoạn mới thành lập (1957 -1967)
Trong 10 năm đầu: khai hoang, lập làng, đi làm nhân công đồn điền… Đây là giai đoạn tương đối thanh bình, số giáo dân không ngừng tăng lên do số người tới định cư, cũng như do số sinh tăng nhiều vì đã ổn định cuộc sống trên vùng đất mới. Giai đoạn nầy việc truyền giáo tập trung vào việc duy trì nếp sống và sinh hoạt đạo đức sẵn có của giáo dân: Kinh nguyện sớm tối ở nhà thờ cũng như các liên gia, duy trì các bí tích, các ông biện dạy Giáo lý cho các em xưng tội và thêm sức, tổ chức thi khảo Giáo lý, thi ngắm Thương Khó, kiệu hoa Đức Mẹ, mở trường tư thục..
– Giai đoạn 1968 – 1975
Giai đoạn chiến tranh ác liệt, nổi bật là cuộc chiến tết Mậu Thân (1968) và biến cố 1975. Tuy luôn bị xáo trộn của cuộc chiến, hầu hết đàn ông đều đi lính, số người còn lại vẫn duy trì đời sống đạo và cũng phát triển một số mặt về truyền giáo (Lúc nầy GX đã có 5 giáo họ)
Giúp đỡ nhau: Giáo xứ cộng tác với cơ quan Caritas để giúp đỡ những người nghèo, những nạn nhân của chiến tranh. Các Cha luôn hoà đồng, gần gũi với giáo dân. Các ngài luôn cổ vũ sự đoàn kết, đùm bọc giữa các gia đình như là một dấu chỉ để truyền giáo.
a. Trí thức và ơn gọi: Cha xứ cũng như các bậc phụ huynh phát triển đời sống trí thức và ơn gọi.
Trong thời gian này, số các em đi học xa cũng như đi tu thật là đông đảo, trở thành phong trào.
b. Hội đoàn:
– Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể phát triển rất mạnh, các ngành đều học theo tài liệu của phong trào, cùng hoà nhập với các giáo xứ trong hạt để học giáo lý.
– Hội con Đức Mẹ, thời gian hoạt động khoảng 10 năm, khá sôi nổi cùng các giáo xứ bạn.
– Công giáo tiến hành: Quy tụ một số phụ huynh, phụ nữ. Đẩy mạnh những việc bác ái, truyền giáo. Phong trào này có tổ chức những cuộc tĩnh tâm, tập huấn.
– Phong trào hướng đạo: Tuy chưa mạnh và đông đảo, nhưng cũng hỗ trợ cho phong trào TNTT.
– Giai đoạn 1975 – 1985
Mọi hoạt động tông đồ, dạy giáo lý, các phong trào đều ngừng lại. Giáo xứ chỉ duy trì được sinh hoạt Phụng Vụ. Các sinh hoạt khác như ca đoàn, giáo lý chỉ mang tính tự phát và nhỏ lẻ. Hội Legio Mariae được thành lập, giúp củng cố đời sống đạo cho các thành viên cũng như tạo sức sống cho GX.
– Giai đoạn 1985- 1995.
Tình hình sáng sủa hơn với chính sách cởi mở dần. Việc dạy Giáo lý cho các em xưng tội, thêm sức được tổ chức đều đặn. Khoảng năm 1990, chọn bộ sách Giáo lý Phổ Thông (của giáo phận Nha Trang), áp dụng cho các em từ 8 – 18 tuổi.
Hội Legio hoạt động mạnh, thành lập được nhiều nhóm, liên kết nhiều GX.
Giáo Xứ đều đặn mở các lớp dự tòng, đặc biệt quan tâm đến Giáo họ Daklao, là một địa chỉ truyền giáo của GX.
– Giai đoạn 1995 – 2006.
Đây là giai đoạn ổn định và phát triển nhất của đời sống đạo của GX. Giáo xứ xây dựng tháp chuông, nhà thờ, tượng đài, nhà xứ. Có nhiều đổi thay các vị chủ chăn, cũng như nhiều lễ đón tiếp khách.
Thành lập các hội đoàn: phụ huynh, phụ nữ, thanh niên, câu lạc bộ gia đình trẻ,hội người cao tuổi… để quan tâm, nâng đỡ đời sống đạo của các giới.
Đọc kinh tối ở gia đình: Để nâng đỡ đời sống gia đình, các giờ kinh tối của giáo xứ sẽ đọc trong các gia đình. Ngoài ra, trong mùa Chay và tháng Mân côi, tổ chức đọc kinh xóm để củng cố tình liên đới.
Bồi dưỡng Giáo lý viên hàng tuần, hệ thống hoá việc dạy Giáo Lý các em. Các lớp giáo lý dự tòng hằng năm, thành lập Ban giảng huấn.
Hội Legio hoạt động mở rộng, tích cực tìm kiếm các tân tòng. Giáo Xứ giải quyết các ngăn trở cũng như củng cố các Ban hành giáo họ, ban tổ đội, các đoàn thể của Daklao, nâng cao đời sống đạo như một phương thế để truyền giáo.
Nói tóm lại, công cuộc truyền giáo của Giáo Xứ không có gì là nổi bật, cũng như kết quả truyền giáo là một điều khó nói bằng con số thống kê. Nhưng có thể nói Giáo Xứ luôn đề cao sứ mệnh truyền giáo, cụ thể một vài điểm:
a. Sống đạo giữa đời, đời sống gia đình thuận hoà, tình làng xóm.
b. Tham gia các đoàn thể trong Giáo Xứ để có thêm hiệu quả tông đồ
c. Tiếp xúc thân thiện và tôn trọng người ngoài đạo.
d. Phát triển đời sống trí thức, ơn gọi. Giáo xứ hiện có 8 linh mục, 2 đại chủng sinh và khoảng 30 tu sĩ nam nữ các dòng.
– Giai đoạn 2006 đến nay:
Tháng 1 năm 2007, Cha Đa Minh Vũ Đức Hậu nhận nhiệm sở mới tại Giáo xứ Bác Ái.
Ngày 16–01–2007, Cha Phaolô Nguyễn Công Minh chính thức Quản xứ Vinh Hương cho đến nay.
Ngày 16–03–2009, Thầy Phó tế Phêrô Cao Tiến Hà nhận bài sai về phục vụ Giáo xứ. Đúng như tâm nguyện của ngài: “Anh em là những người đươc Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và được yêu thương (Cl 3,12)”.
Chính Thiên Chúa đã tuyển lựa ngài để ngài ra đi và truyền lửa yêu thương đến cho mọi người và đặc biệt cho giới trẻ. Vào ngày 15–07–2009 ngài nhận lãnh tác vụ Linh mục.
Giáo xứ Vinh Hương từng bước được ổn định, tương lai Giáo hội địa phương này sẽ mãi gắn kết với lớp trẻ kế thừa, bởi lâu nay mơ ước có một nơi thật thuận tiện cho các cháu vui, học giáo lý, sinh hoạt là cả một vấn đề nan giải. Nhưng giờ đây không phải là bài toán khó.
Ngày 01–03–2010, nhà giáo lý được tiến hành xây dựng, chỉ sau hơn 4 tháng thi công, mọi công đoạn hoàn thiện đã hoàn tất, vào ngày 18–07–2010, ĐGM Giáo phận Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản trong một chuyến kinh lý về Giáo xứ để ban phép Thêm sức và tham dự Đại hội Giới trẻ lần thứ 1 của thanh niên Giáo hạt Quảng Đức được tổ chức tại Giáo xứ nhà, Ngài đã làm phép nhà Giáo lý và sau đó vào ngày 16–01–2011, đã được đưa vào sử dụng cho niên khóa mới.
Để thêm lòng tôn sùng Mẫu Tâm, Đài Đức Mẹ được khởi công vào ngày 01–05–2010 và đúng vào lễ Mân Côi 03–10–2010 hoàn thành.
CÁC GIÁO HỌ
* Năm 1990, Giáo họ Bác Ái tách khỏi Giáo Xứ Vinh Hương và được nâng lên hàng Giáo Xứ
* Năm 1991, Giáo họ Đức Lệ chính thức sinh hoạt độc lập và ngày 01-11-2010 cũng đã được nâng lên Giáo xứ
Các Giáo họ hiện nay gồm:
1- Giáo họ Thanh Tân: 337 hộ – 1685 nhân danh
2- Giáo họ Vinh Sơn: 304 hộ – 1520 nhân danh
3- Giáo họ Phaolô thành lập năm 1971: 242 hộ – 1210 nhân danh
CÁC HỘI ĐOÀN
Như những cánh tay nối dài, gắn kết và cùng vận hành trên đà phát triển của Giáo xứ:
1- Hội Phụ huynh
2- Hội Phụ nữ
3- Câu lac bộ người cao tuổi
4- Câu lạc bộ gia đình trẻ
5- Hội Legio Mariae
6- Cộng đoàn Thanh niên
7- Thiếu nhi
8- Ban Kèn Gabriel
19- Ca đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
10- Ca đoàn Cecilia
11- Ca đoàn Emmanuel
12- Ca đoàn Magnificat (Giáo họ Phao Lô)
Chúng con xin tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cầu xin Thánh Bổn mạng luôn luôn giữ gìn và dìu dắt từng người, từng gia đình trong Giáo xứ biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau để cùng hiệp nhất mở rộng nước Chúa và ra đi loan báo Tin mừng.
VUI MỪNG
Không vui mừng sao được, khi Giáo xứ hiện tại đang gặt hái những mùa vàng từ những hạt giống đã được các bậc tiền bối gieo trồng xuống miếng đất này…
Không vui mừng sao được, khi thấy mối tình khắng khít – giữa những người đã xa lìa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, từ bốn phương trời đã đến và ở lại đây, nơi mảnh đất này.
Những bàn chân đi khai phá đất hoang, những bàn tay cày xới vun trồng, cho đất lạ trổ sinh hoa trái tốt tươi. Chặng đường những năm qua đã nói lên một tình yêu thiết tha, nhân hậu trong trái tim mỗi người giáo dân Vinh Hương hôm nay…(Trích LỜI NGỎ – Kỷ Yếu 50 năm thành lập Giáo xứ: Lm.Quản xứ Phaolô Nguyễn Công Minh)
(cập nhật ngày 26.01.2011 theo nguồn GX Vinh Hương)
Xã Đức Mạnh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông